chuyen phong the cua vua minh mang
Bà là con gái thứ mười của vua Gia Long, mẹ là Đức phi Lê Thị Bình (em của Công chúa Ngọc Hân, vợ vua Quang Trung). Năm Quý Mùi (1823), vua Minh Mệnh đã gả bà cho ông Lê Văn Yến là con trưởng của ông Lê Văn Phong và là con thừa tự của Tả quân Lê Văn Duyệt (anh Lê Văn Phong
Chuyện vua Minh Mạng tìm người tài và sách xưa. 09:05, 25/11/2020. Năm 1821, vua Minh Mạng có chuyến ngự giá Bắc tuần để nhận tuyên phong của nhà Thanh. Noi theo tiên đế Gia Long, nhà vua đi đến đâu cũng xem xét dân tình, răn quan lại địa phương, thi ân cho dân nhiều nơi. Trong quá
Bật Mí Chốn Phòng The Vua Minh Mạng - Vị Vua Có Nhiều Vợ, Con Nhất Trong Lịch Sử Phong Kiến Việt Nam.Theo quan niệm của cha ông ta thì “con đàn, cháu đống
7 năm sau khi lên ngôi, vua Minh Mạng đã sai quan đi tìm nơi đất kết phát để làm nơi an táng cho mình sau này.Theo sách “Đại Nam thực lục”, năm 1826, vua Minh Mạng dụ cho văn võ đình thần đi tìm hai ngôi đất là “Vạn niên đại cát địa” và “Vạn niên cát địa” để dùng làm nơi an táng cho mẹ vua và vua.
Sites De Rencontres Musulmanes Mariage Gratuit. Vào thời phong kiến, Hoàng đế thường được xem như "thiên tử", ngồi ở vị trí cửu ngũ chí tôn. Vì vậy, phàm là việc liên quan tới nhà vua thì sẽ nghiễm nhiên được xem trọng, việc thị tẩm để duy trì huyết thống hoàng gia cũng là một trong số nhưng ít ai biết rằng, quá trình lâm hạnh phi tần của nhà vua thực chất cũng phải tuân thủ không ít nguyên tắc. Điều đáng nói nằm ở chỗ, người chịu thiệt vì các quy định ngặt nghèo này không chỉ có phi tử mà có đôi khi là cả Hoàng có chuyện ai cũng dễ dàng lên được long sàng của Hoàng đếKhác với trên phim ảnh, những đối tượng được Hoàng đế sủng hạnh rất có giới hạn. Bởi thị tẩm là việc liên quan tới vấn đề duy trì huyết thống cho hoàng tộc. Ảnh minh họa Nguồn Baidu.Mặc dù mỗi khi nhắc tới hậu cung của đế vương, nhiều người thường vô tình mường tượng đó là nơi có hàng ngàn mỹ nhân, giai lệ, còn nhà vua thì sẽ được tùy ý lựa chọn người mình thích. Thế nhưng trên thực tế lại không phải như người được phép hầu hạ chuyện chăn gối của đế vương thường chỉ giới hạn trong ba đối tượng Thứ nhất là phi tần đã được sắc phong, thứ hai là cung nữ, thứ ba là nam sủng nếu có.Trong một số tình huống đặc biệt, một số quan viên trong triều hoặc các chư hầu sẽ chủ động dâng tặng mỹ nữ cho Hoàng vậy, những trường hợp này vẫn chỉ là thiểu số, hơn nữa rất ít khi có tiền lệ nhà vua tùy ý sủng hạnh những đối tượng không rõ danh tính hay không có xuất thân rõ ràng, trong sạch. Bởi việc thị tẩm liên quan trực tiếp đến huyết thống hoàng tộc và danh dự của bậc đế tần không được phép mặc y phục khi tới thị tẩmĐể đảm bảo an toàn tuyệt đối cho Thiên tử, các phi tần được triệu vào thị tẩm sẽ không được phép mặc y phục. Ảnh minh họa Nguồn Baidu.Trong nhiều tác phẩm phim cổ trang, người xem thường thấy cảnh các phi tần được triệu đi thị tẩm sẽ không mặc y phục mà được cuộn vào chăn và đưa tới tẩm cung của Hoàng tắc này thực chất đã tồn tại từ thời nhà Nam Minh và tới thời nhà Thanh thì chính thức trở thành một bước buộc phải tuân thủ trong quá trình thị phi tần không được mặc y phục khi đến thị tẩm chủ yếu để giữ an toàn cho Hoàng đế. Bởi sự thực là lịch sử Trung Hoa đã từng ghi nhận không ít trường hợp hậu phi, cung nữ tìm cách ám sát nhà lệ này cũng được xem là cần thiết khi mà vào thời Minh – Thanh, tình hình chính trị trong nước có nhiều bất ổn, đặc biệt là sự xuất hiện của hàng loạt bản án văn tự án có liên quan tới chữ nghĩa vào đầu thời nhà Thanh khiến hàng ngàn người phải chết một cách oan một hành động tùy tiện cũng có thể thất sủng, thậm chí rơi đầuChiếu theo quy trình thị tẩm bốn bước vào thời nhà Thanh, phi tần sau khi được đưa tới tẩm cung của Hoàng đế cũng không thể bước lên long sàng hoặc vén chăn một cách tùy đó, Hoàng đế sẽ lên nằm trên giường, nhưng không đắp kín chăn mà để lộ ra một phần bắp chân của tử khi được đưa vào hầu hạ sẽ bước lên phía cuối giường, sau đó từ từ chui vào trong chăn từ phía chân mà Hoàng thượng để khi hầu hạ xong, vị phi tần ấy lại phải từ từ bò xuống cuối giường và chui ra từ phía góc chăn ban ý kiến cho rằng, quy tắc thị tẩm cẩn trọng đến từng chi tiết này mặc dù đảm bảo sự an toàn và uy nghi của Thiên tử, nhưng cũng thể hiện rõ thái độ "trọng nam khinh nữ" đã thâm căn cố đế vào quan niệm của người Trung Hoa đế cũng có lúc... không được "tận hứng"Những tưởng Hoàng đế là người có thể tùy ý hưởng dụng mỹ nữ, thế nhưng ít ai biết rằng họ cũng có những lúc "muốn mà không được". Ảnh minh họa Nguồn Baidu.Ngay cả khi có trong tay hậu cung với vô số mỹ nữ, các Hoàng đế cũng đôi khi không được làm chủ chuyện vợ chồng của chính biệt là vào thời nhà Thanh, giờ giấc lâm hạnh đã được cơ quan chuyên quản lý việc thị tẩm là Kính Sự phòng quy định rất rõ đó, Hoàng đế và hậu phi chỉ được thị tẩm trong khoảng nửa giờ, tương đương khoảng 30 phút. Khi đã tới giờ, thái giám Kính Sự phòng sẽ lên tiếng nhắc nhở nhà trường hợp Hoàng đế còn muốn tiếp tục, Kính Sự phòng sẽ gia hạn thời gian bằng cách nhắc nhở thêm lần thứ hai, lần thứ ba. Tuy nhiên khi đã tới lần thứ ba, dù nhà vua vẫn chưa tận hứng thì các thái giám vẫn buộc phải đưa phi tần về cung. Đây là quy định thuộc vào tổ chế đã được quy định từ khi mới lập quốc để tránh Thiên tử say mê tửu sắc mà bỏ bê chuyện triều có khái niệm riêng tư tuyệt đối trong chuyện chăn gốiMặc dù là vợ chồng trên danh nghĩa, nhưng các phi tần không mấy ai được phép qua đêm ở tẩm cung của Hoàng nữa, quá trình lâm hạnh của nhà vua cũng không có sự riêng tư tuyệt đối bởi luôn có các thái giám, cung nữ túc trực bên ngoài chờ mệnh biệt là vào thời nhà Thanh, người của Kính Sự phòng thậm chí còn phải theo dõi sát sao việc thị tẩm của nhà vua để ghi lại những số liệu cần phận của tần phi được quyết định bằng một câu hỏi từ thái giámKhông những phải tuân thủ các thủ tục rườm rà về quy củ, việc phi tần có được phép mang thai hay không cũng phải phụ thuộc vào quyết định của người khác.Ảnh minh họa Nguồn Baidu.Ngày nay, mang thai và làm mẹ được xem là thiên chức của người phụ nữ. Tuy nhiên vào thời phong kiến, các phi tần có được mang long thai hay không còn phải phụ thuộc vào ý muốn của nhà khi kết thúc quá trình thị tẩm, thái giám Tổng quản sẽ hỏi Hoàng đế một câu đầy ngụ ý "Lưu hay không lưu?"Nếu Thiên tử trả lời là "lưu" thì đồng nghĩa với việc phi tần này được phép mang long thai. Còn trong trường hợp câu trả lời là ngược lại thì thái giám buộc phải làm mọi cách để ép ra "long tinh" từ trong cơ thể của người phương pháp tránh thai thời cổ đại vốn được xem là thiếu khoa học và gây hại với cơ thể phụ nữ. Trong cung đình, thủ thuật hay dùng là ấn huyệt để khiến "long tinh" đi nhưng nếu đã thực hiện thủ thuật này mà vị phi tần kia vẫn mang thai ngoài ý muốn thì các thái giám sẽ tìm mọi cách để khiến người đó sảy thai, bao gồm cả việc cho uống độc dược hoặc nhiều hình thức khác man rợn những luật lệ ngặt nghèo trên đây, không khó để nhận thấy quá trình lâm hạnh của vua chúa và phi tần thời xưa không hề đơn giản mà phải đảm bảo hoàn thành rất nhiều thủ tục. Thế nhưng dù vậy, canh bạc đổi đời mang tên "thị tẩm" vẫn trở thành mục tiêu tranh đoạt của vô số cuộc chiến đẫm máu chốn thâm cung.*Tổng hợp
Vua Minh Mạng lên ngôi đúng ngày mùng Một Tết. Ngay sau khi lên ngôi vua ban chiếu miễn thuế cho dân, thưởng cho tôn thất và các quan. Mùng 2 Tết, làm lễ cúng vua cha, mùng 3, yết các miếu thờ tổ tiên. Lăng vua Minh Mạng. Minh Mạng tên thật là Nguyễn Phúc Đảm 1791-1841, là vị vua thứ hai của triều Nguyễn. Ông là vị vua làm việc rất chăm chỉ, Đại Nam dưới thời trị vì của ông là quốc gia hùng mạnh bậc nhất trong khu vực, khiến ngoại bang nể sợ. Vua Minh Mạng lên ngôi ngày mùng Một Tết năm Canh Thìn 1820. Sử cũ ghi lại tương đối đầy đủ những hoạt động của nhà vua trong ngày Tết. Ngay sau khi lên ngôi, vua Minh Mạng ban chiếu gồm 16 điều đặc ân như miễn thuế cho nhân dân, ban thưởng cho tôn thất và các quan. Ngày mùng Hai Tết, làm lễ cúng vua cha, ngày mùng 3, vua yết các miếu thờ tổ tiên rồi sau đó, ban tặng bạc và thưởng cơm rượu cho các bậc kỳ lão trong kinh kỳ. Trong năm ở ngôi đầu tiên, vua Minh Mạng vẫn đang trong thời gian để tang vua cha là vua Gia Long. Sau lễ giỗ lần đầu lễ Tiểu tường vua Gia Long vào ngày 19 tháng Chạp, vua Minh Mạng bàn với quần thần về nghi lễ Nguyên đán. Lễ Nguyên đán Quần thần tâu rằng sau lễ Tiểu tường, nhà vua có thể chủ trì lễ tế được rồi, và đề xuất đúng ngày Chính đán mùng Một Tết, nhà vua nên thân hành yết Thái miếu nơi thờ phụng các vị chúa Nguyễn. Các quan tham gia làm bồi tế, sau đó nhà vua về ngự điện ở Cần Chính, đổi mặc áo thường, các quan vẫn mặc triều phục, đợi ở sân điện Thái Hoà để vào triều kiến. Còn ngày thường thì nhà vua vẫn mặc áo trắng ngự ở Tiện điện mà nghe chính sự để trọn số tháng cư tang. Nhà vua nghe theo lời bàn đó. Do đó, vào ngày mùng Một Tết năm sau, tức năm Minh Mạng thứ 2 1821, nhà vua đội mũ cửu long, mặc áo hoàng bào, đeo đai ngọc, tiến hành tế Thái miếu, sau đó ban lệnh miễn lễ triều hạ cho các quan. Sau đó vua đổi áo thường, ngự ở điện Cần Chính, các quan vào chiêm bái. Nhà vua ban cho các quan bạc thay cho việc đãi yến theo thứ bậc khác nhau. Ngày mùng 2, nhà vua dâng lễ lớn ở điện Hoàng Nhân, nơi thờ vua Gia Long. Đến ngày mùng 7 thì chính thức khai ấn. Ngày mùng 10, nhà vua cho tiến hành duyệt binh. Nhà vua mặc nhung phục ngự ở điện Càn Nguyên xem duyệt. Lệ duyệt binh bắt đầu từ đấy. Cũng từ năm này, vua Minh Mạng cho thủy quân diễn tập chèo thuyền và lấy làm lệ thường niên. Năm Minh Mạng thứ 4, được mùa, khi khai bút đầu năm, nhà vua đã tự viết 6 chữ lớn “Phúc Thọ Thượng Thọ Hữu Niên” vào 4 bức giấy rồng, đưa bảo bầy tôi rằng “Năm mới trẫm khai bút viết sáu chữ ấy, hai chữ “Thượng Thọ” là dâng cung Từ Thọ nơi ở của Thái hậu, để cầu phúc lớn, hai chữ “Hữu Niên” để cầu cho dân ta năm nay được mùa, hai chữ “Phúc Thọ” để ở bên hữu chỗ ngồi để theo ý nghĩa nhà vua thu phúc mà ban cho dân”. Vua Minh Mạng cũng thường xuyên làm thơ khai bút đầu xuân. Thường nhà vua ngự ở điện Văn Minh, triệu hoàng thân và văn võ đại thần cho ngồi, ban nước chè uống, bình thơ vua làm. Trong số rất nhiều bài thơ xuân của nhà vua, bài “Ngày Tết Nguyên đán khai bút”, có câu “Canh diệt tứ thời nhưng phục thuỷ, Ưu cần nhất niệm hựu tòng đầu…”. Bốn mùa thay đổi quay vòng mới, Một dạ chăm lo lại bắt đầu. Giảm thuế, ban thưởng trong chiếu xuân Trong thời gian trị vì, nhiều lần trong chiếu đầu xuân, vua Minh Mạng giảm thuế cho nhân dân, như năm đầu lên ngôi, năm thứ 5, thứ 6, thứ 10… Mức thuế được giảm từ 1 phần 10 đến 4 phần 10, tùy vào tình hình mùa màng của từng địa phương. Không chỉ ban thưởng cho các quan trong kinh, ngày Tết, vua Minh Mạng cũng nhớ đến các quan ở xa. Năm Minh Mạng thứ 6, nhà vua bảo thị thần rằng “Sự mừng xuân ban khắp cả bầy tôi mà thành thần Gia Định vì giữ ngoài không được dự yến ở triều đình, trẫm rất lấy làm áy náy”. Vua bèn sai thị vệ đem phẩm vật ban cho Tổng trấn Lê Văn Duyệt, các văn võ thuộc thành như Trương Tiến Bửu, Nguyễn Văn Thuỵ, Nguyễn Xuân Thục, Trần Nhật Vĩnh đều được thưởng chỉ thưởng cho các quan, vua Minh Mạng cũng ban cho các giám sinh Quốc tử giám mỗi người 10 quan tiền. Quan bộ Hộ là Nguyễn Hữu Thận nói thưởng thế là quá hậu. Vua trả lời rằng “Cho con hát đàn bà hầu hạ thì không nên hậu, chứ học trò của báu của nhà nước, ngày nay nuôi để ngày khác dùng, há chẳng nên hậu hay sao ?”. Ngày đầu năm, nhà vua cũng ban thường cho những người dân sống thọ, như ân chiếu ban hành năm Minh Mạng thứ 11, quy định các kỳ lão trên 100 tuổi ban thưởng 3 lạng bạc, trên 90 tuổi thưởng 2 lạng bạc, trên 80 tuổi thưởng 1 lạng bạc. Đầu xuân, nhà vua thường xuất hành du xuân ra ngoài thành, như năm thứ 6, ngự ra Đông Giao, khi đi về lệnh giảm thuế thân 1 phần 10 cho dân các xã đi qua, lại thưởng thêm cho dân xã 500 quan tiền. Năm sau, vua xuất hành đi thăm về phía đông Kinh thành, cũng thưởng cho dân ở dọc đường quan tiền. Năm Minh Mạng thứ 8 1827, nhân lễ Lục tuần đại khánh của Hoàng thái hậu, đầu năm nhà vua ban ân điển gồm 13 điều, như miễn hết tiền thuế thân, tiền đầu quan, tiền điệu, tiền cửa đình cho cả nước, giảm tiền thóc gạo thuế lệ về điền thổ tới 5 phần 10… Từ năm Minh Mạng thứ 10, triều đình bắt đầu làm lễ Nghênh xuân và Tiến xuân, tức các lễ đón xuân và tiến thần Câu mang, với con trâu đất, để cầu nguyện cho thời tiết được lành, mùa màng được thuận. Lễ tế cờ Năm này, vua Minh Mạng cũng cho đổi lễ Đầu xuân ra quân làm lễ tế cờ. Theo đó, ngày 11 tháng Giêng, nhà vua đặt triều nghi ở điện Cần Chánh để quan Khâm mạng bái mạng. Đến kỳ tế cờ, trước một ngày Hữu ty làm đàn đặt án ở ngoài quách phía nam Kinh thành, án giữa đặt một bài vị “Kỳ đạo chi thân”, án bên trái đặt ba bài vị “Kỳ đầu đại tướng”, “Lục đạo đại tướng”, “Ngũ phương kỳ thần”, án bên phải đặt 4 bài vị “Chủ tể chiến thuyền chính thân”, “Kim cổ dác nạo pháo chi thần”, “Cung thỉ phi thương phi thạch chi thần”, “Trận tiền trận hậu thần kỳ”, đều hướng về phía nam. Trước án thờ đều bày lễ tam sinh cúng các loại gia súc trâu, dê, lợn, hai bên có 300 biền binh mang súng, 10 con voi lễ, 3 cố đại bác. Ngày tế cờ, quan Khâm mạng làm lễ, sau đó bắn 3 phát đại bác, rồi trở về phục mạng. Theo lệ ban yến và thưởng cho các hoàng tử thân công và các quan văn võ, thì các quan từ cấp Chánh ngũ phẩm trở lên mới được dự tiệc. Năm 1828, do là dịp Tứ tuần đại khánh nhà vua tròn 40 tuổi, nên vua cho đặc cách cho các quan văn từ Chánh lục phẩm trở lên, võ giai thực thụ Suất đội đều được dự. Đến năm Minh Mạng thứ 17 1836, lại ban quy định là vào lễ tết Nguyên đán trong cung đình từ hoàng tử tước công và quan viên văn võ đều cho ăn yến tiệc, thưởng đồ vật có thứ bậc. Ngoài việc giữ nghiêm lễ tế các vị tổ tiên, vua Minh Mạng cũng yêu cầu tế lễ chu đáo các đền thờ các vua thời trước, như trong dụ ban hành cuối năm Minh Mạng thứ 7 1826 “Những thành trấn khác có đền miếu thờ tự đế vương, văn thánh các đời mỗi nơi lập một đàn tế tự và phối tế với các miếu thờ thần trong điển tại trị sở”. Theo LÊ TIÊN LONG / TRI THỨC TRỰC TUYẾN Tags Vua chúa Việt Nam, Nhà Nguyễn, Tết Nguyên đán, Minh Mạng
Your access to this service has been limited. HTTP response code 503 If you think you have been blocked in error, contact the owner of this site for assistance. If you are a WordPress user with administrative privileges on this site, please enter your email address in the box below and click "Send". You will then receive an email that helps you regain access. Block Technical Data Block Reason Access from your area has been temporarily limited for security reasons. Time Sun, 11 Jun 2023 165952 GMT About Wordfence Wordfence is a security plugin installed on over 4 million WordPress sites. The owner of this site is using Wordfence to manage access to their site. You can also read the documentation to learn about Wordfence's blocking tools, or visit to learn more about Wordfence. Click here to learn more Documentation Generated by Wordfence at Sun, 11 Jun 2023 165952 computer's time .
Cải cách hành chính của vua Minh Mạng thế kỷ 19 Bối cảnh Minh Mạng hay Minh Mệnh, là vị hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1820 đến năm 1841. Ông là vị vua có nhiều công trạng nhất của triều Nguyễn, là người năng nổ, cương nghị, tinh thông Nho học, uyên bác, học vấn cao và một nhà chính trị, nhà quân sự tài ba. Đây được coi là thời kỳ hùng mạnh cuối cùng của chế độ phong kiến trong lịch sử Việt Nam. Nội dung Vua Minh Mạng đã thực hiện nhiều chính sách, biện pháp cải cách trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội giúp đất nước trong thời kỳ trị vì là thời kỳ hưng thịnh nhất trong lịch sử chế độ cai trị của nhà Nguyễn. Điều này bao gồm cải cách bộ máy quản lý nhà nước và hệ thống quan lại. Về tổ chức bộ máy nhà vua đổi mới và thống nhất nền hành chính quốc gia, trong đó có việc phân cấp bộ máy hành chính, xác định lại toàn bộ địa giới hành chính quốc gia cho nhẹ nhàng và dễ kiểm soát hơn. Nam Kỳ xưa và Nam Kỳ được chia lại thành 27 dinh trấn, dinh thường hay phủ, triều đình Huế trực tiếp quản lý 4 ty triều đại vương Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức sau đổi là phủ Thừa Thiên, Quảng Nam và 7 trấn từ Nghệ An đến Bình Thuận. Vua Minh Mạng ban tên “Nam Trực Bắc Trực, Tả Hữu Kỳ, Bắc Kỳ Nam Quảng Nam, Quảng Ngãi là Nam Trực; Quảng Trị, Quảng Bình là Bắc Trực; Bình Định đến Bình Thuận là Tả Kỳ; Hà Tĩnh đến Thanh Hóa nay là tỉnh Thanh Hóa là Hữu Kỳ; Biên Hòa đến Hà Tiên là Nam; Ninh Bình đến Lạng Sơn là Bắc.” Vua Minh Mạng đổi quốc hiệu là Đại Nam, lập Nội các và Đô thống mới. Nhạc viện ở Huế. Về đội ngũ quan lại Nhà vua đã chú trọng xây dựng đội ngũ quan lại có tài, khôi phục ngạch, quan từ trung ương đến địa phương. Vua bãi bỏ các phủ Bắc thành và Gia Định thành, chuyển thành tỉnh thành tỉnh, củng cố chế độ quan lại ở miền núi. Nhà vua rất quan tâm đến việc đào tạo và khuyến khích các quan lại bổ nhiệm vào các cơ quan hành chính nhà nước. Trong thời kỳ trị vì của mình, vua Minh Mạng đã xác định học vấn là tiêu chuẩn tuyển chọn quan lại cho bộ máy hành chính. Dưới sự cai trị của ông, con đường học thuật đã được thay thế bằng con đường chết chóc. Vua Minh Mạng cứ 3 năm mở khoa thi tuyển nhân tài một lần. Vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, ông mở khoa thi Hương; Thìn, Tuất, Sửu, Mùi mở khoa thi Hợi. Đồng thời, đề nghị cán bộ hoàn thiện hệ thống, nội dung rà soát thường xuyên, thực chất. Để đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, ông cho chỉnh đốn học hành, thi cử, bố trí các đại khoa ở các địa phương, trả lương và cấp đất cho các quan này để họ yên tâm học hành cho Công ty. Về xây dựng pháp luật và kỷ cương hành chính Vua Minh Mạng là người rất chú trọng đến việc tạo dựng phép tắc kết hợp giữa lễ và pháp, rất coi trọng việc duy trì kỷ cương, pháp luật. Ông thường lấy bốn chữ “Chính – Đại – Quang – Minh” làm kim chỉ nam cho việc điều hành bộ máy hành chính. Ngoài các bộ luật Gia Long, vua Minh Mạng còn quyết định bổ sung thêm các bộ luật mới để xử tội quan lại ở kinh đô và các tỉnh, quy định về việc trừng trị quan lại tham nhũng, quy định về xét tài sản. hay các địa phương xử tệ, làm tiêu chuẩn kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và quan lại 3. Để kiểm soát chặt chẽ quyền lực, phòng, chống sự tha hóa quyền lực, quy định mở rộng phạm vi, đối tượng áp dụng của chế định miễn trừ. Chế độ truy cống được thi hành nghiêm ngặt trong các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình dưới triều Nguyễn. Đồng thời, quy định rõ hình thức xử phạt nếu quan lại vi phạm các quy định về hồi hương và chống tham nhũng, góp phần kiện toàn bộ máy hành chính triều Nguyễn, tránh tình trạng bè phái, bè phái, thao túng, thâu tóm quyền lực, tha hóa quyền lực trong triều đình. bộ máy hành chính và đội ngũ quan lại các cấp. Cuộc cải cách hành chính của vua Minh Mạng có ý nghĩa to lớn, thể hiện sự thống nhất đất nước về mặt nhà nước; củng cố quyền lực trong tay nhà vua, tổ chức chặt chẽ chính quyền từ trung ương đến địa phương, củng cố chế độ chuyên quyền; Cách chia tỉnh của vua Minh Mạng là có cơ sở khoa học, phù hợp với phạm vi quản lý của một tỉnh… Đây là cơ sở để thành lập và chia tỉnh như ngày nay. ✅ Dịch vụ thành lập công ty ⭕ ACC cung cấp dịch vụ thành lập công ty/ thành lập doanh nghiệp trọn vẹn chuyên nghiệp đến quý khách hàng toàn quốc ✅ Đăng ký giấy phép kinh doanh ⭐ Thủ tục bắt buộc phải thực hiện để cá nhân, tổ chức được phép tiến hành hoạt động kinh doanh của mình ✅ Dịch vụ ly hôn ⭕ Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn ly hôn, chúng tôi tin tưởng rằng có thể hỗ trợ và giúp đỡ bạn ✅ Dịch vụ kế toán ⭐ Với trình độ chuyên môn rất cao về kế toán và thuế sẽ đảm bảo thực hiện báo cáo đúng quy định pháp luật ✅ Dịch vụ kiểm toán ⭕ Đảm bảo cung cấp chất lượng dịch vụ tốt và đưa ra những giải pháp cho doanh nghiệp để tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác ✅ Dịch vụ làm hộ chiếu ⭕ Giúp bạn rút ngắn thời gian nhận hộ chiếu, hỗ trợ khách hàng các dịch vụ liên quan và cam kết bảo mật thông tin
Vua Minh Mạng không chỉ nổi tiếng ở tài thao lược, mà còn vang danh hậu thế nhờ có sức khoẻ hơn người. Nhà vua hoạt động chăn gối về đêm đều đặn nhưng hằng ngày vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết mệt. Không chỉ có thế, Vua thường thức đến tận canh ba để làm việc. Điều đó cho thấy Vua Minh Mạng có một “thể chất tiên thiên” – cường tráng bẩm sinh. Chính sự khỏe mạnh đó đã góp phần không nhỏ vào sự vượng con của vị vua này. Một số tài liệu cũng cho thấy, Hoàng đế Minh Mạng có số lượng con nhiều nhất trong 13 đời vua Nguyễn. Ông để lại cho đời 142 người con, gồm 78 hoàng tử và 64 công chúa. Sách Kể chuyện các vua Nguyễn viết Trong đời sống thường nhật, có lẽ Vua Minh Mạng là người được hưởng nhiều vui thú nhất trong các vua Nguyễn ở chốn phòng the. Nhà vua có sức khỏe phục vụ tam cung lục viện, một đêm có thể “chiều” đến 5 – 6 cung tần. Tuy nhiên, thông thường, mỗi đêm, Vua chấm cho thái giám gọi 5 bà vào hầu, mỗi canh một bà. Trong số các bà ấy thì có khi đã có ba bà thụ thai. Có giai thoại rằng, để cẩn thận “tìm” đúng con vua, thái giám phải chuyển danh sách năm bà ấy cho Tôn nhơn phủ; phủ này lại chuyển một danh sách khác cho Quốc sử quán. Sau này, khi bà nào mãn nguyệt khai hoa, Quốc sử quán có trách nhiệm rà soát, đối chiếu xem thử từ ngày vua “đòi” đến kỳ sinh nở có đúng ngày đúng tháng không. Vậy, làm thế nào mà Vua Minh Mạng có “sức đàn ông” phi thường? Theo sử sách, các ngự y trong triều đã ngày đêm nghiên cứu, bào chế những bài thuốc có tính năng tráng dương bổ thận cho thiên tử dùng. Và nhờ “bồi bổ” Minh Mạng thang, gồm hai toa thuốc Nhất dạ ngũ giao và Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử – được thầy thuốc căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của nhà vua để lập ra thang thuốc rượu, mà đấng quân vương nhà Nguyễn trở thành chiến binh dũng mãnh chốn phòng the. Tuy nhiên, các nhà y học hiện đại cho rằng, “phép thần thông” mà người ta đồn đại về Minh Mạng thang không hoàn toàn đúng 100%. Vua Minh Mạng là người có thực lực tính dục bẩm sinh, hứng thú ân ái. Những toa thuốc vua dùng chỉ mang tính trợ lực, chứ không phải đóng vai trò chủ trì quyết định. Ngoài ra, có một bằng chứng đơn giản, nếu Hoàng đế Minh Mạng có bài thuốc thần diệu như vậy thì tại sao Vua Tự Đức cháu nội lại không áp dụng được mà vẫn bị bất lực, không con? Cũng có đời sống tình dục phóng khoáng trong số các vị vua triều Nguyễn, Bảo Đại nổi tiếng là vị vua đa tình và ăn chơi khét tiếng một thời. Theo sách Bảo Đại hay những ngày cuối cùng của Vương quốc An Nam của tác giả người Pháp Daniel Grandclément, sở thích hàng đầu của Hoàng đế Bảo Đại là đuổi theo những người đàn bà đẹp. Ông từng thẳng thắn bộc lộ sự ham muốn sắc dục của mình “Luôn có nhu cầu đối với đàn bà, một thứ nhu cầu thường xuyên không thể dập tắt được như đồ ăn thức uống. Từ khi đến tuổi lớn, đêm nào cũng phải có một người đàn bà nằm bên, mỗi đêm một người”. “Con người Bảo Đại có một phần mười của Farouk, hai phần mười của Machiavel và bảy phần mười của Hamlet… Ông đã dan díu với đủ hạng người, từ cô hầu phòng bình thường, vợ của các gia nhân đày tớ, hoa hậu Đông Dương đến gái nhảy, thậm chí gái điếm…”, một người thân thiết của cựu hoàng đã bình phẩm. Không chỉ thử “cảm giác” với người đẹp ở quê hương, ông hoàng Bảo Đại còn có đàn bà Trung Hoa, Hong Kong, Pháp, Nhật Bản, Zaire…. Theo Dantri
chuyen phong the cua vua minh mang